Núi Thiên Cầm Và Bi Kịch Lịch Sử Của Hồ Quý Ly

Núi Thiên Cầm

Núi Thiên Cầm

 
KHẢO CỨU VỀ THIÊN CẦM
 
Núi Thiên Cầm và bi kịch lịch sử của Hồ Quý Ly
Thiên Cầm là ngọn núi nổi tiếng tự bao đời nay ở đất Hoan Châu (tức Nghệ An – Hà Tĩnh ngày nay). Sách dư địa chí xưa nay khi ghi chép về Hoan Châu hầu như không bỏ sót ngọn núi này. Sự nổi tiếng của Thiên Cầm không chỉ bởi sự hùng vĩ nên thơ của một vùng non nước kỳ quan mà nơi này còn là địa danh gắn với sự kiện bi thương Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt tháng 6 năm 1407 (tháng 5 năm Đinh Hợi). Sự kiện này dấu mốc ghi nhận sự thất bại cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược và sụp đổ hoàn toàn của vương triều nhà Hồ, khởi đầu một chương đen tối trong lịch sử dân tộc. Sau một thời kỳ tương đối dài độc lập tự chủ, nước ta lại bị người phương Bắc đô hộ trong vòng hai thập niên (1407-1427).
 
Hơn 600 năm qua, đặc biệt từ năm 1960 đến nay các nghiên cứu về Hồ Quý Ly dưới nhiều gốc độ như nhân cách con người, chính sách cải cách đất nước, cuộc chiến tranh chống quân Minh xâm lược đã đưa đến những nhận thức mới về Hồ Quý Ly và vương triều Hồ. Mặc dù chính sách cải cách dưới triều nhà Hồ được đánh giá là tiến bộ nhưng đáng tiếc chưa có thời gian để thực thi và kiểm nghiệm thì nước ta vướng vào họa xâm lăng của phương Bắc. Rất nhiều nguyên nhân được chỉ ra khi nói đến sự thất bại của vương triều nhà Hồ như: sai lầm trong tổ chức và lãnh đạo kháng chiến chống quân Minh nhưng trong đó nguyên nhân chủ yếu là nhà Hồ đã không đoàn kết và huy mạnh sức mạnh của toàn dân để đánh giặc. Hồ Nguyên Trừng từng thẳng thắn nhận xét tại hội nghị của triều đình bàn kế đánh giặc “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo thôi”. Nhà thơ, nhà chính trị, quân sự lỗi lạc Nguyễn Trãi cũng từng xót xa:“Quân của họ Hồ trăm vạn người trăm vạn lòng” .
Những thành tựu và những thất bại, công và tội của Hồ Quý Ly luôn là chủ đề quen thuộc đối với giới học giả trong và ngoài nước. Có thể nói, Hồ Quy Ly là nhân vật lịch sử phức tạp với nhiều ý kiến tranh luận. Tuy nhiên, cho dù thế nào đi nữa, “lịch sử cũng cần công minh ghi nhận tinh thần yêu nước, ý chí đánh giặc giữ nước của Hồ Quý Ly và những người đứng đầu vương triều Hồ” .
 
Sự kiện Hồ Quý Ly cùng thân quyến và những người lãnh đạo vương triều Hồ bị bắt ở vùng đất Hà Hoa (tức địa bàn hai huyện Kỳ Anh và Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh ngày nay) đã được chính sử ghi chép, trong đó Hồ Quý Ly bị bắt ở cửa Kỳ La (Cẩm Xuyên) còn Hồ Hán Thương và thái tử Nhuế bị bắt ở núi Cao Vọng (Kỳ Anh). Lâu nay khi đề cập về chi tiết này, nhiều sách trích dẫn ở phần lời chua (chú thích) trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục: “Núi Cao Vọng, cửa Kỳ La nay ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh” . Đây là sự nhầm lẫn, về mặt hành chính của Kỳ La, chúng tôi xin minh định lại như sau:
Năm 1242, dưới thời nhà Trần, châu Nghệ An đổi thành phủ Nghệ An với 5 châu trực thuộc, trong đó có Nam Tĩnh. Châu Nam Tĩnh gồm 4 huyện: Hà Hoàng, Bài Thạch, Hà Hoa và Kỳ La. Kỳ La là tên gọi cửa biển, vừa là tên xã Kỳ La vừa là tên huyện Kỳ La (tương ứng với huyện Cẩm Xuyên ngày nay). Năm 1397, nhà Trần đổi phủ Nghệ An thành trấn Lâm An, cho nhập hai huyện Hà Hoa với Kỳ La thành huyện Kỳ Hoa. Thời thuộc Minh, đặt phủ Hà Hoa gồm hai huyện Thạch Hà và Kỳ Hoa. Dưới thời Hậu Lê không có sự thay đổi nhiều về tên gọi hành chính của huyện Kỳ Hoa. Sang thời Nguyễn, năm thứ 12 (1831), vua Minh Mạng, cắt hai phủ Đức Quang và Hà Hoa của tỉnh Nghệ An lập ra tỉnh Hà Tĩnh. Năm Minh Mạng thứ 12 (1836), cắt 4 tổng: Lạc Xuyên, Thổ Ngọa, Mỹ Duệ, Vân Tán của huyện Kỳ Hoa lập ra huyện Hoa Xuyên. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), vì kỵ tên huý, đã đổi phủ Hà Hoa thành Hà Thành, Kỳ Hoa ra Kỳ Anh, Hoa Xuyên thành Cẩm Xuyên. Như vậy, Kỳ La từng trực thuộc huyện Kỳ Hoa chứ không phải thuộc huyện Kỳ Anh như phần chú thích của Cương mục.
Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt ở nơi nào tại cửa biển Kỳ La?
 
Sau khi từng bước thất bại trước sự tấn công của quân Minh, tháng 6 năm 1407, trên đường chạy vào Tân Bình , khi đến vùng cửa biển Kỳ La, Hồ Quý Ly cho gọi người dân bản xứ đến để hỏi, một ông lão ra bái yết thưa rằng, xứ này tên là Ky Lê , trên có núi Thiên Cầm là điều không lành, xin chớ lưu lại. Hồ Quý Ly vô cùng tức giận cho rằng ông lão kia nói điều quái gỡ liền chém đầu và ở lại đây để cự giặc. Ngày 10/07/1407 (tức ngày 5 tháng 5 Đinh Hợi), dưới sự chỉ huy của viên tướng Liễu Thăng, quân Minh tiến đến cửa biển Kỳ La. Khi đến đây, giặc “thấy quân và voi của ta bèn đổ bộ để đánh. Quân ta bày trận kháng cự, nhưng đại bại, Hồ Quý Ly bị bắt” .
Toàn thư chép: “Tháng 5, ngày mồng 5, quân Minh đánh vào cửa biển Kỳ La, châu Nhật Nam. Ngày 11, quân Minh đánh vào Vĩnh Ninh . Bọn vệ quân Vương Sài Hồ 7 người bắt được Quý Ly ở bãi Chỉ Chỉ; Giao Châu hữu vệ quân là bọn Quý Bảo 10 người bắt được Tả tướng quốc Trừng ở cửa biển Kỳ La. Ngày 12, đầu mục bộ hạ của Mạc Thúy là bọn Nguyễn Như Khanh bắt được Hán Thương và thái tử Nhuế ở núi Cao Vọng” . Như vậy về thời gian, ngày 16/6/1407, Hồ Quý Ly bị bắt ở bãi Chỉ Chỉ, Hồ Nguyên Trừng bị bắt ở cửa biển Kỳ La; ngày 17/6/1407, Hồ Nguyên Trừng và thái tử Nhuế bị bắt ở núi Cao Vọng (huyện Kỳ Anh).
 
Chính sử và sử sách địa phương có ghi chép nhưng đều hết sức vắn tắt về sự kiện Hồ Quý Ly và thân quyến, quan lại nhà Hồ sa vào tay giặc. Mặt khác, sau hàng trăm năm với sự thay đổi của địa lý, điều kiện tự nhiên và sự tác động của con người, các dấu tích như liên quan: bãi Chỉ Chỉ, hang Hồ Quý Ly, miếu thờ ông lão bị Hồ Quý Ly chém đầu (Miếu thờ giọt máu), Giếng Tàu, Đường Bắt, đến những khe suối, bến tàu thuyền, thứ mất hẳn dấu vết, thứ bị tàn phá, thứ thay hình đổi dạng nên rất khó để xác định đâu là chỗ Hồ Quý Ly bị giặc bắt.
Bao đời nay người sở tại thường quen gọi núi (rú) Thiên Cầm là rú Cùm, (gọi chệch là Gùm) . Danh xưng Thiên Cầm chủ yếu xuất hiện trong sử sách liên quan đến tích vua Hùng Vương hoặc Trấn thủ đất Hoan Châu là Lê Khôi đến đây du ngoạn rồi đặt tên là Thiên Cầm mà ít được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Vài chục năm trở lại đây, khi khu nghỉ mát ở đây được tái lập , phát triển mạnh mẽ với quy mô và diện mạo mới thì tên gọi Thiên Cầm mới chính thức phổ biến. Người ta lý giải Thiên Cầm nghĩa là Đàn trời hoặc Trời bắt.
Trong từ điển tiếng Việt, “Cùm” là dụng cụ được làm bằng hai tấm gỗ chắc và nặng, có đục sẵn lỗ để cho chân vào, khi ghép lại thì tạo thành ngàm để giữ chặt chân những người bị tù, bị giam. Với nghĩa nguyên thủy này, chữ “Cùm” ở đây được dùng để chỉ việc Hồ Quý Ly bị giặc bắt và đóng cùm, chắc hẳn rằng không phải ngẫu nhiên mà người dân bản địa gọi Thiên Cầm là rú Cùm (Gùm).
 
Một số chi tiết có liên quan:
 
Sau khi bị bắt, Hồ Quý Ly bị quân Minh áp giải trên con đường mòn theo hướng đông nam từ chân núi ra bến neo đậu tàu thuyền. Từ đây tàu thuyền xuôi theo sông Lạc Giang để ra đến cửa biển để đưa về phương Bắc. Con đường mòn này về sau được gọi là “Đường bắt” nay thuộc thôn Trần Phú, thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên. Tại khu vực này, còn sót lại di tích chiếc giếng khơi (được gọi là Giếng Tàu) nằm bên con đường tỉnh lộ 14 từ thị trấn Cẩm Xuyên về xã Cẩm Nhượng. Tương truyền, trong thời gian giao chiến với quân ta, quân Minh có đào một giếng khơi để lấy nước ngọt. Giếng này được nhân dân gọi là “Giếng Tàu” tức giếng được xây dựng bởi người Tàu. Một số nhà nghiên cứu còn cho rằng giếng này mang nhiều đặc điểm của giếng Chăm. Rất có thể quân Minh bắt người Chiêm Thành làm phu phen, tạp dịch trong đoàn quân tiến đánh nước ta. Giếng được chế tác (đào) hình vuông từ thành đến xuống đến đáy. Phần ống giếng (tang giếng) được tạo bởi những viên đá cuội lớn xếp chồng khít với nhau. Sau khi quân Minh rút đi, người dân sở tại sử dụng nguồn nước từ giếng này. Mặc dù đã được khơi thông và tôn tạo lại nhưng đến nay giếng bị bỏ hoang nằm đơn côi, đìu hiu bên vệ đường. Liên quan đến việc bô lão địa phương bị Hồ Quý Ly chém đầu. Vì thương cảm vị bô lão này, người dân đã xây dựng một miếu thờ nhỏ dưới chân núi Thiên Cầm gọi là “Miếu thờ giọt máu”. Sang thế kỷ 20, miếu này vẫn được người dân trong làng đến trông nom, hương khói nhưng nay đã bị tàn phá mất hẳn dấu tích.
 
Về chi tiết bãi Chỉ Chỉ:
 
Toàn thư chép Hồ Quý Ly bị bắt ở bài Chỉ Chỉ. Theo nhà nghiên cứu Võ Hồng Huy,“Bãi Chỉ Chỉ có sách chép là gềnh Chẩy Chẩy. Bản chữ Hán của Toàn thư chép nguyên văn là Chỉ Chỉ than. Than có sách phiên âm là Nàn, nghĩa là vũng Chỉ Chỉ. Than hoặc Nàn là vũng nước xoáy cạn (từ điển Khang Hy)” . Như vậy tại núi Thiên Cầm hoặc khu vực biển gần với núi này có một địa điểm được gọi là bãi Chỉ Chỉ. Bãi Chỉ Chỉ được ghi chép duy nhất một lần trong Toàn thư mà không hề có bất kỳ sách sử sau này nhắc đến hoặc giải thích gì thêm.
Về chi tiết hang Hồ Quý Ly:
Theo truyền ngôn của dân sở tại, trên núi Thiên Cầm có một hang động mà Hồ Quý Ly đã ẩn mình trốn giặc ở đó gọi là “hang Hồ Quý Ly”. Sử sách địa phương ghi chép, sau nhiều ngày vây hãm và đánh nhau với quân ta, giặc Minh đã dùng hỏa công đốt núi. Với sự mách nước của người dân bản địa, quân Minh dùng rơm tẩm với vôi bột phơi khô để ở cửa hang chờ khi gió nồm từ biển thổi vào thì châm lửa đốt. Với cách này giặc bắt được Hồ Quý Ly.
 
Hiện nay ở núi Thiên Cầm còn tồn tại hai hang đá. Nhà nghiên cứu Võ Hồng Huy đã ghi chép khá kỹ lưỡng về các cửa hang này: “Cửa hang Đá Nhà, còn có tên là hang đá Ghềnh, nằm ở phía Đông mái núi, đối diện với biển. Còn có một cửa hang tương tự khác nằm ở phía Tây Bắc mái núi. Hai của hang cách nhau khác xa, nhưng đều nằm ở độ cao khoảng 10m, ước tính từ mặt biển. Thủa xưa, mặt nước biển còn nằm ở mức đó trên lưng núi này. Ngày nay, biển đã lùi xuống, ra xa, nhưng dấu tích ngấn nước trên lưng núi, tuy đã bị bong tróc, mờ nhò, thưa thớt một đôi nơi, vẫn còn có thể nhận biết được. Cửa hang này được trỗ giữa một vách đá tựa như bức tường thẳng đứng. Trên đầu, có cài một phiến đá dẹt, che hắt ra như trọt mái nhà. Có lẽ vì thế nên có tên gọi là hang Đá Nhà. Cửa hang mái trên hình vòm, cao khoảng 1,8m; rộng khoảng 2,5m. Cửa hang rộng nhưng hẳm sâu nên nhìn xuống và nhìn vào không thấy gì” .
 
Các cửa hang đều hướng mặt ra biển. Có lối đi men theo triền núi để đi đến cửa hang nhưng khá chật hẹp, chênh vênh và hiểm trở. Từ cửa hang phóng tầm mắt ra là cả một vùng biển trời bao la có núi non hải đảo thật hùng vĩ và thoáng đạt. Sau này hai hang đá này đã được Nhà nước xây dựng thành công trình quân sự, phòng thủ bờ biển.
 
Vào những năm 30 của thế kỷ 20, có một số người đã thực hiện việc thám sát hang động nhưng không thành công. Họ dùng nứa khô bó thành đuốc soi sáng đường vào hang. Khi đốt ngoài cửa hang bó đuốc cháy sáng choang nhưng đi vào được một đoạn thì đuốc tắt ngấm. Do không có đèn pin và các thiết bị hỗ trợ nên những người thám sát phải quay ra. Từ đó trở đi, không ghi nhận thêm một bất kỳ một cuộc thám sát hang động này nữa. Người ta còn liên tưởng rằng, hai cửa hang này thông với nhau bằng một con đường trong lòng núi. Tuy nhiên đó chỉ là phỏng đoán mà thôi, chưa ai biết trong đó có những gì. Đến nay những hang đá trên núi Thiên Cầm vẫn là ẩn số, chưa được giải mã. Về sau, trong một thời gian dài, cách đây vài ba chục năm, các hang đá này là nơi trú ẩn của một ông lão bị điên có tên là Lân Hộ. Như vậy, cửa hang đá Ghềnh (Đá Nhà) có phải là gềnh Chẩy Chẩy, bãi Chỉ Chỉ hay không cần phải phải tiếp tục nghiên cứu và tổ chức thám sát làm rõ. Ngày nay với sự phát triển của trang thiết bị, công nghệ và đội ngũ những nhà thám sát hang động thì việc tổ chức thám sát, tìm hiểu các hang động ở núi Thiên Cầm là một ý tưởng khác thú vị nên sớm được triển khai.
 
Hàng ngàn năm trôi qua, trải qua bao biến thiên của lịch sử, đối mặt với thiên tai địch họa, như những lần bị người Chiêm Thành xâm nhập đốt chùa và cướp phá, người phương Bắc dùng hỏa công đốt núi, người Mỹ trút xuống bao bom đạn, đi qua thời gian Thiên Cầm vẫn thẳm xanh đầy sức sống của rừng cây và sừng sững, trơ gan cùng tuế nguyệt Thiên Cầm còn là khúc nhạc buồn vang vọng từ ngàn xưa gợi nhớ về kết cục bi thảm của đấng quân vương một thời từng mưa làm gió và soán ngôi vua nhà Trần khi sa cơ lọt vào tay giặc cũng trở nên đớn hèn. Bao nhiêu con người, bao nhiêu vũ khí, bao nhiêu thành quách, chiến lũy và lớp lớp cọc lim, xích sắt cũng không ngăn được quân giặc huống gì một hang đá trong ngọn núi lẻ loi và như Thiên Cầm làm sao có thể trở thành nơi hiểm yếu để ngăn giặc. Kết cục này từ cổ chí kim đều giống nhau.
 
Bên cạnh những trang chính sử, bi kịch lịch sử này là chủ đề lớn được đề cập khá nhiều trong văn thơ thời Hậu Lê với những tác gia lớn như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Bùi Huy Bích, Ninh Tốn. Nhưng hơn ai hết, từng là mệnh quan dưới triều nhà Hồ, sau đó là những tháng năm vào sinh ra tử, sát cánh kề vai với Lê Lợi dưới ngọn cờ của nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã sáng tác những câu thơ xác đáng về những sai lầm và thất bại của Hồ Quý Ly.
Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển
Khoá sông xích sắt cũng vầy thôi
Lật thuyền mới rõ dân như nước
Cậy hiểm khôn xoay mệnh ở trời
Nghiên khắc phê phán nhưng Nguyễn Trãi cũng có những cây thơ trải lòng, cảm thông với Hồ Quý Ly trước mối hận ngàn thu:
Hoạ phúc gây mầm không một chốc
Anh hùng để hận mấy ngàn năm năm
Back To Top